TIN THỦY SẢN

Sóc Trăng: Thông báo kết quả quan trắc môi trường lần 2 tháng 9

Ảnh minh họa: The Pinky Lips Phan Bạch Vân

Sau đây là kết quả quan trắc môi trường nuôi trồng thủy sản tại Sóc Trăng ở đợt 2 trong tháng 9 và những khuyến cáo hữu ích cho người nuôi tôm.

Kết quả quan trắc như sau:

- Nhiệt độ nước:  dao động từ 27-31oC, nằm trong ngưỡng cho phép.

- Độ mặn: gần như đã ngọt lại hoàn toàn 0-1‰, nằm ngoài ngưỡng cho phép.

Rounded Rectangle: ‰- Độ pH: Hầu hết các điểm đều có độ pH nằm trong ngưỡng, dao động 7.1-8.0.  Riêng tại Kênh Vĩnh Châu, Cầu Treo và bến đò NT 30-4 có độ pH hơi thấp dưới ngưỡng 6.7-6.9.

- Độ Kiềm:  Hầu hết các điểm đều có độ kiềm trong ngưỡng, dao động từ 67-134. Riêng tại Chàng Ré và khu vực Cù Lao Dung có độ kiềm thấp dưới ngưỡng dao động 40-48 mg/l.

- Độ trong: Tuần này ngay con nước rong, dòng chảy mạnh và nhiều phù sa lơ lửng nên hầu hết các điểm thu mẫu có độ trong thấp 3-18cm nằm dưới ngưỡng cho phép.

- Hiện tại độ mặn ở tất cả các tuyến kênh rạch ngoài tự nhiên hầu như đã ngọt lại 0‰, chỉ còn 1‰ ở Sáu Quế 1 và Xà Mách và thời điểm hiện tại không thích hợp để lấy nước nuôi tôm nước lợ. Bà con cần tuân thủ lịch thả giống chung của ngành kết thúc thả giống vào ngày 30-9 DL và riêng đối với vùng Mỹ Xuyên đã có Công văn ngừng thả giống theo Công văn số 64/CV-PNN&PTNT ngày 08/08/2018 của Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Mỹ Xuyên; đối với diện tích có thể trồng lúa thì bà con cần lắp lại vụ lúa, còn đối với diện tích ao sâu không thể trồng lại lúa thì bà con cần thả các đối tượng khác như cá rô phi, trắm cỏ, tôm càng xanh …để xử lý và ổn định về môi trường, có thời gian cách ly mầm bệnh chuẩn bị tốt hơn cho vụ tôm nước lợ năm 2019.

- Tình hình thiệt hại trên tôm: trong tuần thiệt hại 301,5 ha. Lũy kế 10.900 ha chiếm 20,6% diện tích thả (cùng kỳ 2017 thiệt hại 16,7%). Thiệt hại tôm theo thông tin bên ngoài chủ yếu là bệnh phân trắng (Cù Lao Dung), đỏ thân đốm trắng (Trần Đề, Mỹ Xuyên) và hoại tử gan (Vĩnh Châu).

- Đối với diện tích thiệt hại hoặc sau khi thu hoạch, bà con nuôi tôm tuyệt đối không xả thải nước thải, bùn thải khi chưa được xử lý ra môi trường tự nhiên bên ngoài, mà phải có khu chứa bùn thải và xử lý nước thải sau đó mới thải ra môi trường tự nhiên. Đối với các ao đang nuôi còn lại trên đồng, bà con cần lưu ý một số vấn đề như sau:

1. Ổn định môi trường trong ao tôm

Hiện tại đang trong mùa mưa nên ao nuôi thường đối diện với 2 hình thế thời tiết là nắng nóng và mưa dầm đột ngột sẽ làm cho môi trường ao nuôi dễ biến động (chênh lệch nhiệt độ, tuột kiềm, sụp tảo, khí độc bùng phát,...) làm cho tôm dễ stress và dễ nhiễm bệnh. Do đó cần quản lý theo dõi thật chặt chẽ đặc biệt 03 yếu tố môi trường : (1) độ pH (đo và chuẩn lại độ pH sau những cơn mưa kéo dài);

(2) độ Kiềm nên giữ độ kiềm từ 100 mg/l trở lên;

(3) Giữ hàm lượng oxy hòa tan ≥5 mg/l, thường oxy thấp nhất là vào nữa đêm đến gần sáng. Đồng thời chuẩn lại các thông số môi trường khác trong ao tôm sao cho nằm trong ngưỡng thích hợp và ổn định cho tôm nuôi.

2. Quản lý sức khỏe tôm nuôi:

- Bắt giống phải có giấy kiểm dịch và xét nghiệm các mầm bệnh nguy hiểm trên tôm (Đốm trắng, gan tụy cấp, Còi (MBV), EHP, TSV...) và phải thực hiện thuần dưỡng cho quen dần với 4 yếu tố đó là pH, nhiệt độ, độ mặn, độ kiềm trong bọc giống với nước ao nuôi ít nhất 1 giờ rồi mới thả. Chỉ thả giống khi nhiệt độ trong ao 30oC (sáng sớm hoặc chiều mát).

- Thường xuyên theo dõi các biểu hiện bên ngoài của tôm (gan, ruột, mang...) để có biện pháp xử lý sớm và chữa trị kịp thời. Thường xuyên kiểm tra sự xuất hiện của vi khuẩn Vibrio sp trong ao nuôi để có biện pháp diệt khuẩn hoặc dùng vi sinh khống chế kịp thời, thường kiểm Vibrio 1-2 lần/tuần từ ngày thứ 20 trở đi. Mật độ vi khuẩn Vibrio trong nước ao nuôi tôm nên duy trì 400 khuẩn lạc/ml để hạn chế bệnh chết sớm EMS và các bệnh do vi khuẩn Vibrio gây nên. Bổ sung các vitamin, CPSH, Beta-Glucan…vào thức ăn giúp tăng cường sức đề kháng trên tôm và chống chọi thời tiết cực đoan.

*Lưu ý: Đối với các bệnh do tác nhân là virut (điển hình là bệnh đốm trắng -WSSV) hiện nay chưa có thuốc điều trị; đối với các bệnh do tác nhân là vi khuẩn (điển hình là bệnh hoại tử gan-EMS/AHPND) có khả năng điều trị được nếu tỉ lệ tôm bệnh 30%. Kháng sinh không có tác dụng tăng sức đề kháng hoặc phòng bệnh trên tôm và điều trị kém hiệu quả, dễ kháng-kháng sinh nếu không có phát đồ điều trị đúng, dễ mất an toàn thực phẩm do tồn lưu kháng sinh trong tôm nuôi khi xuất bán.

3. Quản lý cho ăn vừa đủ:

Tôm nuôi nhất là tôm thẻ là loài rất háo ăn, tôm là loài ruột thẳng, tiêu hóa và hấp thụ chỉ 30-40% lượng thức ăn và 60-70% lượng thức ăn còn lại thải ra ngoài ở dạng phân tôm, gây ô nhiễm hữu cơ, tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại, khí độc và tảo độc phát triển. Do đó nên cho tôm ăn ít, vừa đủ khoảng 80-90% lượng khuyến cáo/bảng cho ăn thông thường. Đối với ao thả mật độ thưa thì ban đầu nên gây tạo nhiều thức ăn tự nhiên (Copepoda/trứng nước) và trong giai đoạn đầu (trước 20 ngày) nên cho tôm ăn ít và hạn chế tối đa lượng thức ăn cho tôm ăn. Những ngày trời lạnh, âm u, mưa dầm nên chủ động giảm 30-50% lượng thức ăn sau đó cho ăn lại bình thường khi thời tiết tốt. Đảm bảo hàm lượng oxy hòa tan trong nước ≥ 5 mg/l để giúp tôm khỏe và tiêu hóa chuyển hóa tốt thức ăn. Không nên sử dụng kháng sinh trộn cho tôm ăn để chữa trị hoặc phòng bệnh mà nên sử dụng các loại CPSH hoặc các loại thảo dược như tỏi, trái cau, lá ổi, cây mật gấu, diệp hạ châu… để phòng ngừa bệnh đường ruột và gan tụy.

* Lưu ý:

Bà con cần chủ động đo đạc các yếu tố môi trường trong ao nuôi, đồng thời theo dõi sát kết quả quan trắc môi trường nước cũng như thông tin cảnh báo dịch bệnh, thông tin về bản tin thời tiết, giải pháp khuyến cáo của ngành chức năng để có cách xử lý ao tôm kịp thời, chủ động ứng phó với thời tiết cực đoan.

Hiện nay thị trường tôm trên thế giới không những cạnh tranh về sản lượng mà còn cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh về giá thành làm ra sản phẩm (chi phí sản xuất)  do đó nuôi tôm bà con hạn chế tối đa việc lạm dụng thuốc hóa chất vào ao tôm và quản lý cho ăn vừa đủ, tiết kiệm thức ăn, tiết kiệm điện, chủ động kết nối liên kết tất cả các vật tư đầu vào (giống, thức ăn, thuốc men, bạt phủ, lưới che, cánh quạt,…) cũng như liên kết đầu ra nhằm giảm tối đa giá thành sản xuất và nâng cao giá trị sản phẩm.

- Oxy hòa tan: Khu vực Mỹ Xuyên và Vĩnh Châu (Cầu Trà Niên, Đầu Vàm Trà Niên) có hàm lượng oxy hòa tan thấp dưới ngưỡng, dao động từ 2.9-3.3 mg/l. Các điểm còn lại có hàm lượng oxy trong ngưỡng cho phép từ 3.5-4.7 mg/l.

Phan Bạch Vân Chi cục Thủy Sản Sóc Trăng