TIN THỦY SẢN

Xu hướng tăng nhập khẩu cá biển của thế giới

Ảnh minh họa (Nguồn Internet)

Trong cơ cấu sản phẩm thủy sản XK của Việt Nam 6 tháng đầu năm nay, cá biển là mặt hàng có mức tăng trưởng cao nhất so với mức tăng trưởng chung 10,6% của tất cả các nhóm sản phẩm. Điều này cũng có thể góp thêm minh chứng cho một thực tế là trong 3 năm trở lại đây, từ năm 2009 - 2011, nhu cầu NK cá biển trên thế giới tăng cao, trong đó NK cá các loại mã HS 0301 đến 0305 tăng từ 20,6 - 30,6%, NK cá mã HS 1604 tăng 19,2%.

Theo thống kê của VASEP, XK cá biển của nước ta bắt đầu tăng trưởng mạnh từ năm 2010. Trong năm này, XK cá ngừ tăng gần 49% về khối lượng và gần 60% về giá trị; còn cá các loại khác (mã HS từ 0301 đến 0305 và 1604, trừ cá ngừ, cá tra) cũng tăng 27% về khối lượng và 41,6% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Sang năm 2011, tình hình tiếp tục khả quan khi giá trị XK cá ngừ tăng 29,4%, cá các loại khác tăng 21% so với năm trước.

Từ đầu năm đến 15/7/2012, giá trị XK cá ngừ và cá các loại khác cũng tăng lần lượt 42,3% và 26,8%, trong đó chỉ có tháng 1/2012, giá trị XK cá ngừ giảm 12,4%, cá các loại khác giảm gần 16% so với cùng kỳ năm 2011. Trong 5 tháng liên tiếp sau đó, giá trị XK các mặt hàng này liên tục tăng từ 18 - 103% so với cùng kỳ năm trước.

Nhiều DN XK hải sản cho biết, XK các mặt hàng cá biển trong nửa đầu năm nay thuận lợi hơn nhờ chất lượng sản phẩm khai thác trong nước khá hơn, tỷ lệ hàng tươi sống trong cơ cấu hàng hải sản XK của các DN trong thời gian này tăng đáng kể nên giá trị XK cá biển tăng cao so với cùng kỳ năm trước.

Sáu tháng đầu năm 2012, trong số các mặt hàng cá mã HS từ 0301 đến 0305 và 1604,  sản phẩm cá sống mã HS 0301 có "sức hút" mạnh nhất trên hầu khắp các thị trường NK. Theo thống kê của Trademap, thị trường NK cá sống mã HS 0301 hàng đầu thế giới là Nhật Bản tăng 20% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoại trừ NK của Hàn Quốc giảm nhẹ hơn 5%, còn lại các thị trường tiềm năng khác đều tăng như Thụy Sỹ tăng hơn 7%, Serbia tăng 67%, Brazil tăng 8%, New Caledonia tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái.

Năm 2011, giá trị NK mặt hàng cá tươi hoặc ướp lạnh, trừ philê cá và các loại thịt cá khác thuộc nhóm 03.04 (mã HS 0302), của Thụy Điển, Pháp, Tây Ban Nha, Nga, Brazil, Malaysia... liên tục tăng từ 5-50% so với năm trước. Năm năm trở lại đây, hàng năm Thụy Điển, Nga, Brazil đều đạt mức tăng trưởng giá trị NK mặt hàng cá mã HS 0302 từ 5 - 30%.

Trong 3 năm gần đây, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc và Mỹ là những thị trường tăng cường NK mặt hàng cá mã HS 0303. Từ năm 2009 - 2011, giá trị NK của Nhật Bản tăng 22,3%, Trung Quốc tăng 41%, Thái Lan tăng 38,8%...,trong đó, giá trị NK mặt hàng cá ngừ mã HS 030341, cá hồi mã HS 030322, cá thu đông lạnh mã HS 030374... hàng năm tăng khoảng 5-14%.

Tại một số nước EU như Anh, Đức, Pháp, Tây Ban Nha..., NK cá phi lê và các loại thịt cá khác mã HS 0304 và sản phẩm cá khô, muối hoặc ngâm nước muối, cá hun khói đã hoặc chưa chín, trước hoặc trong quá trình hun khói, bột mịn, bột thô và bột viên làm từ cá làm thức ăn cho người (mã HS 0305) 6 tháng đầu năm nay giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước.

Trong khi đó, tại nhiều thị trường khác ngoài EU, giá trị NK cá philê đông lạnh mã HS 030429, philê cá kiếm (đã hoặc chưa xay, nghiền, băm), tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh lại tăng từ 5-12% trong các năm từ 2009 - 2011.

Tại Nhật Bản - thị trường NK lớn nhất mặt hàng cá đã chế biến hay bảo quản, trứng cá tầm muối và sản phẩm thay thế trứng cá tầm muối chế biến từ trứng cá mã HS 1604, chiếm đến 82% tổng giá trị NK mặt hàng này của toàn thế giới, tiếp tục tăng mạnh 23,4% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, một số thị trường NK khác như Brazil cũng tăng 33%, Ai Cập tăng hơn 150%, Thụy Sỹ tăng 3,2%, Na Uy tăng 6,6%...

Với xu hướng và nhu cầu như hiện tại, nhiều DN nhận định rằng nhu cầu NK cá biển trên thế giới năm nay sẽ tiếp tục tăng so với năm trước.

vasep.com.vn