Độ mặn và thành phần vi khuẩn trong RAS nuôi tôm có ảnh hưởng với nhau như thế nào - Phần 2

Những thay đổi về độ mặn của nước cũng rất quan trọng đối với sức khỏe của tôm.

Tôm thẻ chân trắng
Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Ảnh globalseafood

Tôm thẻ chân trắng phát triển tốt nhất ở 24ppt nhưng chúng có thể chịu được nhiều khoảng độ mặn, lên đến 45ppt. Điều này được khai thác trong hệ thống nuôi RAS, nơi độ mặn thường giảm xuống 10–15ppt sau giai đoạn hậu ấu trùng để giảm chi phí cho muối biển nhân tạo và hàm lượng muối trong nước thải. Khi nuôi tôm thẻ ở độ mặn cao, từ 25 đến 45 ppt, vẫn duy trì sự phát triển tốt, nhưng giữ chúng ở độ mặn thấp đòi hỏi phải duy trì nồng độ kali (K+) và magie (Mg2+) tối ưu trong nước biển nhân tạo để đạt được trọng lượng tối ưu.

Hơn nữa, tỷ lệ Na:K (natri: kali) và Mg:Ca (magiê: canxi) cũng được coi là các yếu tố có thể gây rối loạn và cần được giữ trong phạm vi tối ưu. Nếu các ion này không được điều chỉnh trong quá trình nuôi tôm, độ mặn thấp có thể dẫn đến tính nhạy cảm cao hơn với các mầm bệnh vi khuẩn như V. alginolyticus.

Trong nghiên cứu này, V. alginolyticus được phát hiện ở các độ mặn khác nhau, nhưng nhiều hơn ở độ mặn 30ppt. V. alginolyticus thường được sử dụng trong các thí nghiệm cảm nhiễm như một tác nhân thứ cấp để khảo sát ảnh hưởng của các điều kiện nước khác nhau lên tôm. Vi khuẩn này có thể gây ra các dấu hiệu lâm sàng của bệnh và làm giảm khả năng miễn dịch bẩm sinh ở tôm thẻ chân trắng. Các thông số hóa học và vật lý của nước được báo cáo là quyết định đối với mức độ nghiêm trọng của bệnh. 

thành phần vi khuẩn
Thành phần cộng đồng loài Vibrio spp. trong hệ thống RAS thả L. vannamei. Ba RAS nuôi ở độ mặn 30 ppt, và ba RAS khác ở độ mặn 15 ppt. Biểu đồ hiển thị thành phần loài Vibrio spp. cho mỗi RAS riêng lẻ cũng như thành phần trung bình của các loài Vibrio spp. cho ba RAS cùng độ mặn.

Vibrio harveyi có mặt trong tất cả các hệ thống RAS thí nghiệm, ngoại trừ RAS 2 và chỉ một số chủng phân lập được kiểm tra có kết quả dương tính với các yếu tố gây bệnh. Các vi khuẩn Vibrio khác - V. parahaemolyticus, V. owensii V. campbellii - được tìm thấy với số lượng cao hơn trong nước của hệ thống RAS ở độ mặn 15ppt so với 30ppt, trong khi V. owensii chỉ được phát hiện ở RAS 4. V. parahaeomolyticus được biết đến như một mầm bệnh cơ hội thường xuất hiện ở nước mặn và lợ, và đã gây ra tỷ lệ chết đáng kể (Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính, AHPND) trên tôm nuôi từ khoảng năm 2009.

Tất cả các mẫu phân lập V. owensii được kiểm tra trong nghiên cứu này đều cho kết quả âm tính với các gen độc tố AHPND (pirA, B) và chỉ một số phân lập được kiểm tra cho kết quả dương tính với các yếu tố gây bệnh khác. Tuy nhiên, vì V. owensii cũng có thể mang độc tố AHPND và chỉ có thể được phát hiện ở một trong các hệ thống RAS có độ mặn thấp 15ppt, nên độ mặn giảm dường như là yếu tố nguy cơ gây nhiễm bệnh trên tôm do V. owensii.

Tất cả các mẫu phân lập V. campbellii được kiểm tra trong nghiên cứu này đều cho kết quả âm tính với gen độc tố AHPND và tất cả các yếu tố gây bệnh được phân tích khác. V. campbellii chỉ được phát hiện trong hệ thống RAS ở 15ppt, vì vậy nó có thể là mối đe dọa tiềm tàng đối với tôm trong các hệ thống nuôi có độ mặn thấp.

Kết quả cho thấy quần thể Vibrio spp. trong nước của các hệ thống RAS khác nhau đáng kể tùy thuộc vào độ mặn của nước. Trong RAS ở độ mặn 15ppt, số lượng các loài gây bệnh tiềm ẩn V. parahaemolyticus, V. owensii V. campbellii được phát hiện cũng cao hơn. Tất cả chúng đều có thể tạo ra độc tố gây ra bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) ở tôm. Trong nước có độ mặn 30 ppt, các loài này hầu như không có.

Có thể kết luận rằng độ mặn giảm dẫn đến sự thay đổi quần thể Vibrio spp. sang các loài Vibrio gây bệnh và do đó tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh trên tôm trong hệ thống RAS. Khi xem xét việc giảm độ mặn trong RAS để sản xuất tôm, không chỉ cần xem xét các tác động tiêu cực đến khả năng miễn dịch bẩm sinh của tôm mà còn cả sự thay đổi thành phần loài Vibrio. 

Tham khảo phần 1 tại đây

Nguồn:  Dr. Julia Bauer Dr. Felix Teitge Lisa Neffe, M.S. Dr. Mikolaj Adamek Dr. Arne Jung Christina Peppler Dr. Dieter Steinhagen Dr. Verena Jung-Schroers. Differing water salinities can shift bacterial composition in RAS shrimp production, Global Seafood Alliance, Health&Welfare Categories, 17 January 2022. 

Đăng ngày 07/03/2022
Thư Mai @thu-mai
Dịch bệnh
Bình luận
avatar

Bệnh vi bào tử trùng trên tôm nuôi

Bệnh vi bào tử trùng do vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) gây ra, làm cho tôm chậm lớn bởi EHP ký sinh nội bào và sử dụng dinh dưỡng, năng lượng dự trữ trong gan, tụy khiến tôm không đủ dinh dưỡng, năng lượng cho sự tăng trưởng và lột xác.

Tôm thẻ
• 10:35 05/07/2024

Bệnh DIV1 trên tôm và các biện pháp phòng, chống dịch bệnh

Bệnh DIV1 trên tôm do Decapod Iridescent Virus 1 (DIV1) gây ra, được phát hiện lần đầu tiên trên mẫu tôm càng đỏ (Cherax quadricarinatus) vào năm 2014 tại tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc sau đó vi rút tiếp tục gây bệnh cho các trang trại nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm càng xanh tại một số tỉnh của Trung Quốc.

Tôm bệnh
• 10:41 30/06/2024

Đen mang trên tôm: Hạn chế nguồn cung hữu cơ

Hiện tượng mang tôm bị đen là một trong những bệnh lý nguy hiểm và phổ biến nhất trong nuôi tôm. Bệnh được gây ra bởi một loại vi khuẩn gọi là Vibrio parahaemolyticus, Vibrio harveyi, hoặc Vibrio alginolyticus. Bệnh có thể lan rộng nhanh chóng và gây tổn thất kinh tế lớn cho người nuôi.

Tôm đen mang
• 10:04 27/06/2024

Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm và biện pháp phòng chống

Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) còn được biết đến là “Hội chứng chết sớm”, do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra. Bệnh này có tốc độ lây lan nhanh, tỷ lệ chết có thể lên đến 90% sau 3-5 ngày phát hiện.

Tôm thẻ
• 08:00 21/06/2024

Cá sấu hỏa tiễn - Loài cá săn mồi cực đỉnh

Tại Việt Nam, loài cá này được du nhập từ năm 2000 để phục vụ cho những người đam mê cá cảnh. Tuy nhiên, loài cá này lại tiềm ẩn không ít nguy cơ gây hại cho môi trường lẫn con người.

Cá sấu hỏa tiễn
• 08:09 20/09/2024

Lợi ích từ axit hữu cơ và muối của axit hữu cơ mang lại cho tôm

Các nhà khoa học đã chứng mình rằng axit hữu cơ rất quan trọng đối với một số vật nuôi, trong đó có tôm. Với nên tảng công nghệ phát triển như hiện nay, việc đưa axit hữu cơ vào thức ăn giúp kích thích sự tăng trưởng cho tôm đã trở nên dễ dàng hơn. Hôm nay cùng Tép Bạc đi sâu vào các lợi ích mà acid hữu cơ mang lại nhé!

Tôm thẻ chân trắng
• 08:09 20/09/2024

Tại sao nên bổ sung vi sinh có lợi cho ao nuôi thủy sản?

Ngày nay vi sinh đã trở nên phổ biến hơn với người nuôi ngành thủy sản. Với quy tốc độ phát triển như hiện nay, tình hình dịch bệnh diễn biến có phần phức tạp hơn. Vì vậy, việc bổ sung các loại vi sinh có lợi là điều rất cần thiết để hỗ trợ ao nuôi, tránh các tổn thất không đáng có.

Vi sinh
• 08:09 20/09/2024

Cùng nhà Tép đến với Festival tôm Cà Mau 2023

Festival Tôm Cà Mau và Diễn đàn kết nối sản phẩm OCOP Đồng bằng sông Cửu Long năm 2023 là sự kiện vô cùng hấp dẫn, có quy mô cấp khu vực. Nổi bật nhất trong các hoạt động khuôn khổ của chương trình, phải kể đến chương trình trưng bày gian hàng về thiết bị và sản phẩm về tôm.

Tép Bạc
• 08:09 20/09/2024

Các loài cây gây hại trong ao tôm cần loại bỏ ngay lập tức

Có một số loài cây gây hại trong ao tôm cần loại bỏ ngay lập tức. Các loài cây này có thể cạnh tranh với tôm cho oxy, thức ăn và ánh sáng. Chúng cũng có thể là nơi trú ngụ của các loài ký sinh trùng và bệnh tật.

Các loài cây gây hại cho ao nuôi
• 08:09 20/09/2024
Some text some message..